Scholar Hub/Chủ đề/#sơn mài/
Sơn mài là một loại sơn truyền thống được sử dụng để trang trí bề mặt vật liệu như gỗ, kim loại, gốm sứ, da và cả nội thất. Quá trình sơn mài bao gồm việc đánh ...
Sơn mài là một loại sơn truyền thống được sử dụng để trang trí bề mặt vật liệu như gỗ, kim loại, gốm sứ, da và cả nội thất. Quá trình sơn mài bao gồm việc đánh bóng bề mặt bằng cách sử dụng nhiều lớp sơn, thường là từ 10 đến 20 lớp, và sau đó đánh bóng và mài mịn để tạo ra một bề mặt rất sáng bóng và mịn màng. Sơn mài được công nhận là nghệ thuật cao cấp và đòi hỏi sự kiên nhẫn, khéo léo và kỹ thuật tinh tế.
Quá trình sơn mài thông thường bắt đầu bằng việc chuẩn bị bề mặt cần sơn. Vật liệu được làm sạch, loại bỏ các vết bẩn, mài nhẹ và đồng nhất bề mặt. Sau đó, một lớp sơn cơ bản được áp dụng lên bề mặt để tạo cơ sở cho quá trình sơn mài.
Tiếp theo, các lớp sơn phụ màu được áp dụng, thường là 10 đến 20 lớp, với mỗi lớp phải khô hoàn toàn trước khi áp dụng lớp tiếp theo. Các lớp sơn này có thể được làm từ sơn dầu, sơn mài truyền thống hoặc các loại sơn chuyên dụng khác.
Sau khi áp dụng đủ lớp sơn, quá trình đánh bóng bắt đầu. Đánh bóng bao gồm việc sử dụng các loại giấy mài nhẵn như giấy cát hoặc giấy mài tự nhiên để loại bỏ những vết bẩn, vết trầy xước và tạo ra một bề mặt mịn màng. Quá trình đánh bóng cần được thực hiện cẩn thận và kiên nhẫn để đạt được kết quả tốt nhất.
Cuối cùng, khi bề mặt đã được đánh bóng đủ mịn, một lớp chất chống trầy xước hoặc chất bảo vệ có thể được áp dụng để giữ cho bề mặt luôn bóng và bảo vệ khỏi vết trầy xước.
Sơn mài tạo ra một bề mặt rất sáng bóng, mịn màng và có độ bền cao. Nó cũng có thể tạo ra hiệu ứng khác biệt như tạo điểm nhấn, làm nổi bật các chi tiết hoặc tạo ra các mẫu trang trí phức tạp trên bề mặt vật liệu.
Quá trình sơn mài truyền thống gồm các bước sau:
1. Chuẩn bị và làm sạch bề mặt: Bề mặt cần được làm sạch hoàn toàn để loại bỏ dầu, bụi, vết đục, hoặc các vật liệu khác. Đồng thời, kiểm tra bề mặt xem có bị nứt, trầy xước hay không để tiến hành sửa chữa nếu cần.
2. Áp dụng lớp nền: Lớp nền được áp dụng trước để tạo khả năng bám dính và bảo vệ bề mặt chính. Lớp nền có thể là sơn dầu, sơn melamine hoặc các chất khác tùy theo loại vật liệu.
3. Sơn lớp màu chính: Lớp sơn màu chính được áp dụng sau khi lớp nền đã hoàn toàn khô. Người thợ sẽ sử dụng công thức nhuộm màu để tạo ra màu sơn mong muốn. Sơn mài thường dùng sơn dầu hoặc sơn mài truyền thống.
4. Đánh bóng: Sau khi lớp sơn chính khô hoàn toàn, quá trình đánh bóng bắt đầu. Người thợ sử dụng giấy mài nhẹ hoặc bộ đánh bóng đặc biệt để mài nhẹ và loại bỏ bất kỳ dấu vết, vết trầy xước hoặc vết hằn trên bề mặt sơn.
5. Áp dụng lớp phủ và bảo vệ: Cuối cùng, lớp phủ hoặc chất bảo vệ được áp dụng để bảo vệ lớp sơn và tạo độ bóng sáng lâu dài. Lớp phủ có thể là sáp nhờn, chất chống trầy xước hoặc lớp sơn bóng.
Qua các bước này, quá trình sơn mài sẽ tạo ra một bề mặt bóng sáng, mịn màng, và có khả năng chống trầy xước, chống nứt và bền vững theo thời gian.
Các Retrotransposon lồng ghép trong các vùng gian gen của bộ gen ngô Dịch bởi AI American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 274 Số 5288 - Trang 765-768 - 1996
Cấu trúc tương đối của các gen và DNA lặp lại trong các bộ gen eukaryote phức tạp chưa được hiểu rõ. Phân tích chuỗi chẩn đoán cho thấy một vùng 280-kilobase chứa gen Adh1-F và u22 chủ yếu được hình thành từ các retrotransposon chèn vào nhau. Mười họ retroelement đã được phát hiện, với tần suất tái lặp dao động từ 10 đến 30.000 bản sao trên mỗi bộ gen đơn bội. Các retrotransposon này chiếm hơn 60% vùng Adh1-F và ít nhất 50% DNA nhân của ngô. Các yếu tố này chủ yếu còn nguyên vẹn và phân tán khắp các vùng chứa gen trong bộ gen ngô.
Alternative factor specifications, security characteristics, and the cross-section of expected stock returns1We are especially grateful to Eugene Fama (a referee), an anonymous referee and Bill Schwert (the editor) for insightful and constructive suggestions. We also thank Wayne Ferson, Ken French, Will Goetzmann, Craig Holden, Ravi Jagannathan, Bob Jennings, Bruce Lehmann, Josef Lakonishok, Richard Roll, participants at the 1997 Meetings of the Western Finance Association, the 1997 UCLA/USC/UC Irvine conference, the November 1997 Asset Pricing Meeting of the National Bureau of Economic Research, the Atlanta Forum, and seminars at Columbia, Indiana, Florida, New York, Tulane, and Yale Universities; Eugene Fama and Ken French for providing part of the data used in this study; and Christoph Schenzler for excellent programming assistance. The second author acknowledges support from the Dean's Fund for Research and the Financial Markets Research Center at Vanderbilt University. We are responsible for remaining errors. This paper was formerly titled `A Re-Examination of Security Return Anomalies'.1Journal of Financial Economics - Tập 49 Số 3 - Trang 345-373 - 1998
Một hồ sơ đồng vị oxy trong một phần của vỏ đại dương thời Kỷ Phấn Trắng, Samoa Ophiolite, Oman: Bằng chứng cho sự đệm δ18O của đại dương bằng cách tuần hoàn thủy nhiệt ở độ sâu (>5 km) tại sống núi giữa đại dương Dịch bởi AI American Geophysical Union (AGU) - Tập 86 Số B4 - Trang 2737-2755 - 1981
Các phân tích đồng vị của 75 mẫu từ Samail ophiolite chỉ ra rằng sự trao đổi thủy nhiệt dưới nhiệt độ nóng chảy phổ biến với nước biển xảy ra trên bề mặt 75% của đoạn vỏ đại dương dày 8km này; địa phương, H2O thậm chí còn thâm nhập vào peridotite bị nứt gãy. Các dung nham gối (δ18O = 10.7 đến 12.7) và các dãy tường lót (4.9 đến 11.3) thường giàu 18O, và gabbro (3.7 đến 5.9) bị thiếu 18O. Trong những đá này, tỷ lệ nước/đá ≤ 0.3, và δ18Ocpx ≈ 2.9 + 0.44 δ18Ofeld, chỉ ra sự mất cân bằng đồng vị rõ rệt. Các giá trị δ18O của khoáng chất theo quỹ đạo trao đổi (trộn lẫn) cần điều chỉnh rằng plagioclase phải trao đổi với H2O khoảng 3 đến 5 lần nhanh hơn clinopyroxene. Giá trị δ18Ofeld tối thiểu (3.6) xuất hiện khoảng 2.5 km dưới tiếp xúc diabase-gabbro. Mặc dù những plagioclase trong gabbro dường như không thay đổi dưới khía cạnh petrograhy, oxy của chúng đã được trao đổi triệt để; sự vắng mặt của các khoáng chất thủy hóa, ngoại trừ talc và/hoặc amphibole nhỏ, cho thấy rằng sự trao đổi này xảy ra ở T > 400°–500°C. Các giá trị δ18O của plagioclase tăng lên theo từng mức từ các giá trị tối thiểu của chúng, trở nên trùng khớp với các giá trị nhiệt độ thấp của sơ cấp gần tiếp xúc với gabbro – diabase lót dày đặc và đạt đến 11.8 trong dãy dày. Sự giàu 18O trong các diabase thuộc phaco xanh một phần là do sự trao đổi với các chất lỏng mạnh đã bị dịch 18O, ngoài ra còn do trao đổi ngược ở nhiệt độ thấp hơn nhiều. Dữ liệu δ18O và hình học của buồng magma sống núi đại dương (MOR) đòi hỏi rằng phải có hai hệ thống thủy nhiệt không liên kết trong suốt phần lớn lịch sử trải rộng ban đầu của vỏ đại dương (khoảng 106 năm đầu); một hệ thống tập trung trên trục sống núi và có thể liên quan đến một số tế bào đối lưu tuần hoàn xuống đến mái của buồng magma, trong khi hệ thống khác hoạt động dưới cánh của buồng, trong các gabbro phân lớp. Sự phun nước dịch chuyển 18O lên trên vào các dãy đã thay đổi từ hệ thống dưới, ngay bên cạnh mép xa của buồng magma, kết hợp với sự tác động của hoạt động thủy nhiệt T thấp tiếp tục, tạo ra sự giàu 18O trong phức hợp dày đặc. Tích hợp δ18O như một hàm theo độ sâu cho toàn bộ ophiolite thiết lập (trong lỗi phân tích và địa chất) rằng trung bình δ18O (5.7 ± 0.2) của vỏ đại dương không thay đổi kết quả từ tất cả các tương tác thủy nhiệt này với nước biển. Do đó sự thay đổi thuần trong δ18O của nước biển cũng bằng không, chỉ ra rằng nước biển được đệm bởi vòng đối lưu thủy nhiệt MOR. Dưới điều kiện ổn định, tỉ lệ đồng vị 18O tổng thể giữa các đại dương và magma bazan sống núi giữa đại dương được tính toán là +6.1 ± 0.3, ngụ ý rằng nước biển có một giá trị δ18O không đổi ≈−0.4 (trong sự vắng mặt của các hiệu ứng nhất thời như băng hà lục địa). Sử dụng các dữ liệu mới này về độ sâu tương tác của nước biển với vỏ đại dương, mô hình hóa số học của sự trao đổi thủy nhiệt chỉ ra rằng miễn là tốc độ lan rộng toàn cầu lớn hơn 1 km2/yr, sự đệm 18O của nước biển sẽ xảy ra. Các kết luận này có thể được mở rộng trở lại thời điểm đầu như là Archean (> 2.6 eon) với sự phòng ngừa rằng Δ có thể đã nhỏ hơn một chút (khoảng 5?) do các nhiệt độ tổng quát cao hơn có thể đã xảy ra khi đó. Do đó, nước biển có thể đã có một giá trị δ18O không đổi khoảng −1.0 đến +1.0 trong hầu như toàn bộ lịch sử của trái đất.
#Samail Ophiolite #đồng vị oxy #vỏ đại dương #Kỷ Phấn Trắng #hệ thống thủy nhiệt #sống núi giữa đại dương #đá gabbro #tỉ lệ nước/đá #sự trao đổi thủy nhiệt #đồng vị O-18 #nước biển #tuần hoàn thủy nhiệt #buồng magma #hydrothermal circulation #isotopic buffering